Chia sẻ đến các bạn sinh viên chuyên ngành Marketing một Danh Sách Đề tài khóa luận tốt nghiệp ngành Marketing Mới nhất được Dịch Vụ Viết Luận Văn gợi ý đề tài khóa luận, chuyên đề dành cho sinh viên Khoa Marketing. Các bạn Sinh viên có thể trao đổi thêm với Dịch Vụ Viết Luận Văn về đề tài mình mong muốn và quan tâm để thống nhất lại đề tài khóa luận và chuyên đề để đăng ký với giáo viên nhé. Và dưới đây là Danh Sách Đề Tài Khóa Luận ngành Marketing các bạn sinh viên cùng tham khảo nhé.
Chia sẻ đến các bạn sinh viên chuyên ngành Marketing một Danh Sách Đề tài khóa luận tốt nghiệp ngành Marketing Mới nhất được Dịch Vụ Viết Luận Văn gợi ý đề tài khóa luận, chuyên đề dành cho sinh viên Khoa Marketing. Các bạn Sinh viên có thể trao đổi thêm với Dịch Vụ Viết Luận Văn về đề tài mình mong muốn và quan tâm để thống nhất lại đề tài khóa luận và chuyên đề để đăng ký với giáo viên nhé. Và dưới đây là Danh Sách Đề Tài Khóa Luận ngành Marketing các bạn sinh viên cùng tham khảo nhé.
2.1. Đối với những sinh viên thực tập tại các doanh nghiệp/ tổ chức sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau
2.1.1. Tìm hiểu các hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp/ tổ chức
2.1.2. Tìm hiểu vận dụng hoạt động Marketing tại đơn vị thực tập
2.1.3. Đánh giá hiện trạng hoạt động Marketing tại các doanh nghiệp và đề xuất các chiến lược/kế hoạch/hoạt động/giải pháp Marketing cho doanh nghiệp/ tổ chức trong thời gian 1-3 năm tới
2.2. Đối với các sinh viên không thực tập tại các doanh nghiệp/ tổ chức mà thực hiện các đề tài liên quan đến ngành hàng, thị trường (phân tích hoạt động marketing chung của các doanh nghiệp trong ngành hàng; Nghiên cứu đặc điểm thị trường, tâm lý và thói quen tiêu dùng, …) sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau
2.3. Viết Khóa luận tốt nghiệp
2.4. Hội thảo, bài báo từ khóa luận tốt nghiệp
3.1. Đề tài về Marketing, quản trị Marketing cho doanh nghiệp/ tổ chức (thuộc lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, nông nghiệp hay dịch vụ)
3.2. Đề tài về ngành hàng, lĩnh vực hoặc nghiên cứu thị trường, người tiêu dùng
Tổ chức chỉ đạo thực tập, phân công giảng viên
Các giảng viên tham gia hướng dẫn: Theo danh sách đính kèm
4.2. Trách nhiệm đối với giảng viên hướng dẫn thực tập tốt nghiệp và viết KLTN
4.3. Trách nhiệm của sinh viên trong thời gian thực tập và viết KLTN
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: [email protected]
TS. Nguyễn Xuân Thọ - Khoa Kinh tế - QTKD
Tổ chức các cuộc hội thảo, hội thảo chuyên đề, sinh hoạt học thuật và thảo luận ngoại khóa là những hoạt động được tiến hành khá thường xuyên trong các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu. Hội thảo, hội thảo chuyên đề, sinh hoạt học thuật và thảo luận ngoại khóa là những thuật ngữ quen thuộc trong giới hàn lâm và đều mang tính chất nhóm họp đông người để thảo luận trao đổi các vấn đề chuyên môn. Tuy nhiên quy mô, cách thức tổ chức, chất lượng và tính chất trang trọng của các cuộc hội họp này có một số điểm khác nhau. Do đó, việc làm rõ sự khác nhau của các thuật ngữ trên rất cần thiết để các đơn vị khoa chuyên môn trong cơ sở giáo dục đại học và giới học thuật sử dụng, tổ chức và đánh giá phù hợp vớí tính chất và quy mô của nó.
1. Phân biệt Hội thảo và Hội nghị
Hội thảo và hội nghị thường đều có thể sử dụng từ conference trong tiếng Anh để diễn tả. Về quy mô số người tham dự hội nghị và hội thảo thường khá tương tự nhau, với quy mô lớn, có thể hàng trăm đến hàng chục ngàn người. Cả hội thảo và hội nghị đều dựa trên nguyên tắc bàn bạc và lấy ý kiến về một công việc cụ thể và đều mang tính trang trọng (formal) cao. Cả hội nghị và hội thảo đều thường kéo dài từ 1 đến 3 ngày, thậm chí dài hơn tùy nội dung chương trình và quy mô tổ chức.
Tuy nhiên, điểm khác nhau thứ nhất, về bản chất hội nghị thường để chỉ một cuộc họp còn hội thảo lại được hiểu là một cuộc thảo luận về một lĩnh vực nào đó. Điểm khác nhau thứ hai, hội nghị thường được tổ chức ngoài phạm vi học thuật (chẳng hạn hội nghị khách hàng, hội nghị tổng kết năm của các công ty, hội nghị gặp mặt nhà đầu tư, …), còn hội thảo thiên về học thuật nhiều hơn và mang tính chất khoa học cao hơn.
Những người tham gia hội thảo khoa học đa phần là giới học thuật, nghiên cứu hoặc chuyên gia trong các lĩnh vực mà hội thảo đề cập. Trong hội thảo khoa học, thường có một vài diễn giả (keynote speaker)-thường là các giáo sư đầu ngành, chuyên gia hoặc học giả nổi tiếng am hiểu chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó - đưa ra các bài nói chuyện mang tính chất chủ đạo (keynote speech) để truyền tải thông điệp chính yếu, tạo điểm nhấn quan trọng cho hội thảo. Ngoài bài nói chuyện của diễn giả chính, hội thảo khoa học thường được chia thành nhiều “phiên” thảo luận gọi là session, mỗi session tập trung thảo luận về một lĩnh vực chuyên môn hẹp của hội thảo. Trong mỗi phiên thảo luận (session), nhiều người sẽ lần lượt trình bày về, thuyết trình về chủ đề hẹp đó. Những người tham gia hội thảo có thể đặt câu hỏi, trao đổi, tranh luận, gợi mở, đề xuất với người thuyết trình sau mỗi lượt trình bày.
2. Hội thảo chuyên đề (symposium)
Symposium là hội nghị chuyên đề hoặc hội thảo chuyên đề, tuy nhiên trong lĩnh vực giáo dục thường được gọi là “hội thảo chuyên đề”. Hội thảo chuyên đề là một dạng hội thảo tập trung vào một lĩnh vực hẹp hay chuyên đề hẹp, mang tính học thuật và có tính trang trọng cao. Trong hội thảo chuyên đề có thể có nhiều người trình bày, thuyết trình về một hoặc nhiều đề tài liên quan đến cùng một chủ đề nào đó. Quy mô số lượng người tham gia hội thảo chuyên đề (symposium) thường ít hơn so với hội thảo nói chung (conference).
3. Trao đổi học thuật (seminar)
Seminar thường được tổ chức trong lĩnh vực giáo dục và có thể tạm dịch là trao đổi học thuật, là một cuộc họp mang tính giáo dục, thường thường chỉ tập trung vào một đề tài cụ thể nào đó. Hình thức họp thường là một diễn giả nói chuyện và sau đó thảo luận, quy mô seminar thường giao động từ 10 đến 30 người tham gia. Tính trang trọng của seminar thấp hơn so với conference và symposium, thời gian diễn ra ngắn hơn (có thể một vài giờ đồng hồ hoặc trong vòng một buổi). Trong chương trình đào tạo đại học và sau đại học ở các nước tiên tiến (đặc biệt là bậc đào tạo tiến sĩ), hình thức seminar được sử dụng khá phổ biến. Người tham gia seminar có thể bao gồm nghiên cứu sinh, học viên, sinh viên và chuyên gia (giảng sư trong trường hoặc chuyên gia mời từ bên ngoài). .
4. Thảo luận ngoại khóa (workshop)
Workshop là một lớp học ngoại khoá mà ở đó mọi người được giao lưu, trò chuyện, trao đổi kiến thức, phương pháp, kỹ năng thực hành về một lĩnh vực nào đó. Một workshop thường diễn ra từ 2-4 tiếng với không gian giành cho 15-20 người hay đến cả trăm người tuỳ thuộc vào quy mô tổ chức. Thông thường, một workshop có khoảng 10-20 học viên hoặc đông hơn tuỳ thuộc vào quy mô tổ chức, nhưng không có chuyên gia.
Workshop có 2 hoạt động chính, đó là phần trao đổi của diễn giả và phần hỏi đáp giữa diễn giả và người nghe (Q&A). Không giống với việc học thụ động trên lớp tại các buổi workshop người nghe có thể thoải mái đưa ra những câu hỏi, ý kiến về lĩnh vực được nói đến. Trong workshop có thực hành, bài tập dưới sự giám thị của người giảng (còn trong seminar thì không có bài tập).
Điều không thể tránh nghĩ tới khi hình dung về cuộc sống du học sinh ở Hiroshima đó là chuyện tiền bạc. Những du học sinh đang sống ở đây đã cho chúng tôi biết thực tế chi phí sinh hoạt một tháng hết bao nhiêu.
Chi phí sinh hoạt (sinh hoạt phí) là chi phí duy trì một mức sống nhất định. Những thay đổi về chi phí sinh hoạt theo thời gian thường được vận hành theo chỉ số chi phí sinh hoạt. Chi phí tính toán sinh hoạt cũng được sử dụng để so sánh chi phí duy trì một mức sống nhất định ở các khu vực địa lý khác nhau. Sự khác biệt về chi phí sinh hoạt giữa các địa điểm cũng có thể được đo lường về tỷ lệ sức mua tương đương.
Hợp đồng lao động và trợ cấp hưu trí có thể được gắn với chỉ số giá sinh hoạt, điển hình là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Một COLA điều chỉnh mức lương dựa trên những thay đổi trong chỉ số giá sinh hoạt. Tiền lương thường được điều chỉnh hàng năm. Họ cũng có thể được gắn với một chỉ số chi phí sinh hoạt thay đổi theo vị trí địa lý nếu nhân viên di chuyển. Trong trường hợp sau này, nhân viên nước ngoài có thể sẽ chỉ thấy phần thu nhập tùy ý trong lương của họ được lập chỉ mục bởi một mức chênh lệch CPI giữa các vị trí việc làm mới và cũ, để lại phần không tự nguyện của tiền lương (ví dụ: thanh toán thế chấp, bảo hiểm, xe hơi thanh toán) không thay đổi.
Các điều khoản leo thang hàng năm trong hợp đồng lao động có thể chỉ định mức tăng phần trăm hồi tố hoặc tương lai trong lương công nhân không gắn với bất kỳ chỉ số nào. Các khoản tăng lương được thương lượng này được gọi chung là các điều chỉnh chi phí sinh hoạt hoặc tăng chi phí sinh hoạt vì sự tương đồng của chúng với các mức tăng gắn liền với các chỉ số được xác định bên ngoài. Chi phí sinh hoạt bằng với lãi suất danh nghĩa trừ đi lãi suất thực tế.
Khi điều chỉnh chi phí sinh hoạt, quyết toán lương thỏa thuận và tăng ngân sách vượt quá CPI, báo cáo phương tiện truyền thông thường so sánh hai mà không xem xét mã số thuế thích hợp. Tuy nhiên, CPI dựa trên giá bán lẻ của một giỏ hàng hóa và dịch vụ. Hầu hết các giao dịch mua của cùng một giỏ đều yêu cầu sử dụng đô la sau thuế Đô la thường phải chịu mức thuế suất biên cao nhất. Do đó, COLA nhất thiết sẽ phải vượt quá tỷ lệ lạm phát CPI để duy trì sức mua.[1]
Vấn đề được công nhận rộng rãi được gọi là bracket-creep cũng có thể xảy ra ở các quốc gia nơi bản thân khung thuế biên không được lập chỉ mục - COLA tăng chỉ đơn giản là đặt nhiều đô la hơn vào khung thuế suất cao hơn. (Chỉ trong một hệ thống thuế phẳng, mức tăng phần trăm trên tổng thu nhập sẽ chuyển thành mức tăng bù đắp lạm phát tương đương ở mức sau thuế.)
Economist Intelligence Unit xây dựng một cuộc khảo sát chi phí sinh hoạt nửa năm (hai lần một năm) trên toàn thế giới, so sánh hơn 400 giá riêng lẻ trên 160 sản phẩm và dịch vụ. Chúng bao gồm thực phẩm, đồ uống, quần áo, đồ dùng gia đình và các mặt hàng chăm sóc cá nhân, tiền thuê nhà, vận chuyển, hóa đơn tiện ích, trường tư, trợ giúp trong nước và chi phí giải trí.
Bản thân cuộc khảo sát là một công cụ internet được thiết kế để tính toán chi phí sinh hoạt và xây dựng các gói bồi thường cho các giám đốc điều hành của công ty duy trì lối sống phương tây. Khảo sát kết hợp chi phí so sánh dễ hiểu của các chỉ số sinh hoạt giữa các thành phố. Cuộc khảo sát cho phép so sánh giữa thành phố với thành phố, nhưng với mục đích của báo cáo này, tất cả các thành phố được so sánh với một thành phố cơ sở của Thành phố New York, nơi có chỉ số được đặt là 100. Cuộc khảo sát đã được thực hiện trong hơn 30 năm.
Cuộc khảo sát gần đây nhất được công bố vào tháng 3 năm 2017. Singapore vẫn là thành phố đắt đỏ nhất thế giới trong năm thứ tư liên tiếp, trong một trường hợp hiếm hoi mà toàn bộ năm thành phố đắt đỏ nhất không thay đổi so với năm trước.[2] Cả Sydney và Melbourne đều củng cố vị trí của mình như mười thành phố đứng đầu, trong đó Sydney trở thành thành phố đắt nhất thứ năm và Melbourne leo lên vị trí thứ sáu. Châu Á là nơi có hơn năm thành phố đắt đỏ nhất trong top 20 nhưng cũng là nơi có tám thành phố rẻ nhất trong số mười thành phố rẻ nhất.
Các khoản đóng góp hoặc trả thêm được cung cấp cho các nhân viên đang được tái định cư tạm thời cũng có thể được gọi là điều chỉnh chi phí sinh hoạt hoặc chi phí sinh hoạt. Những điều chỉnh như vậy nhằm bù đắp những thay đổi về phúc lợi do sự khác biệt về địa lý trong chi phí sinh hoạt. Những điều chỉnh như vậy có thể được mô tả chính xác hơn như là một khoản trợ cấp diem hoặc gắn với một mặt hàng cụ thể, như với các khoản phụ cấp nhà ở. Nhân viên đang được tái định cư vĩnh viễn ít có khả năng nhận được các khoản phụ cấp như vậy, nhưng có thể nhận được điều chỉnh lương cơ bản để phản ánh các điều kiện thị trường địa phương.
Trợ cấp sinh hoạt thường được trao cho các thành viên của quân đội Hoa Kỳ đóng quân tại các căn cứ ở nước ngoài nếu khu vực mà một thành viên dịch vụ được chỉ định có chi phí sinh hoạt cao hơn khu vực trung bình ở Hoa Kỳ. Ví dụ, các thành viên dịch vụ đóng quân tại Nhật Bản nhận được chi phí sinh hoạt từ 300 đến 700 đô la mỗi tháng (tùy thuộc vào mức lương, số năm phục vụ và số lượng người phụ thuộc), ngoài mức lương cơ bản của họ. Khoản thanh toán bổ sung này không chịu thuế.